Thứ Sáu, 8 tháng 11, 2019

Kết hợp liệu pháp tâm lý điều trị trầm cảm ở thanh thiếu niên

Trong khi nản, con nít và thanh thiếu niên có khuynh hướng tụt hậu xa về mặt học thuật và mất đi các mối quan hệ bạn bè quan yếu. Như ở người lớn nguyên cớ trầm cảm ở con trẻ và thanh thiếu niên không được rõ; Nó được cho là kết quả từ các yếu tố di truyền và những căng thẳng về môi trường, áp lực học tập và những thiếu thốn, mất mát trong cuộc sống.

Các thể hiện cơ bản

Dấu hiệu nhận biết của chứng rối loạn trầm cảm ở trẻ con và thanh thiếu niên na ná như ở người lớn nhưng có hệ trọng đến những mối quan hoài tiêu biểu của trẻ, chả hạn như học tập và vui chơi. con nít có thể không giải thích được xúc cảm bên trong hoặc tâm cảnh. Trầm cảm nên được xem xét khi những đứa trẻ hoạt động kém đi so với trước đó, không hòa nhập cộng đồng, rút khỏi xã hội, hoặc có hành vi phạm pháp.

Ở một số trẻ có rối loạn trầm cảm, tâm cảnh nổi bật là khó chịu như là cáu gắt bực bõ, kíchthích, gây hấn hơn là nỗi buồn (một sự dị biệt quan yếu giữa tuổi thơ và người lớn). Sự khó chịu liên hệ đến trầm cảm ở trẻ con có thể biểu thị như là hành vi hiếu chiến và bất hợp tác...

Ở trẻ khuyết tật trí tuệ, chứng rối loạn tâm trạng trầm cảm hoặc rối loạn tâm cảnh khác có thể biểu thị như các triệu chứng của các bệnh thân thể và rối loạn hành vi.

Lứa tuổi thanh thiếu niên dễ mắc các rối loạn trầm cảm

Lứa tuổi thanh thiếu niên dễ mắc các rối loạn trầm cảm

Các rối loạn trầm cảm ở trẻ mỏ và thanh thiếu niên

Các rối loạn trầm cảm ở con nít và thanh thiếu niên bao gồm: rối loạn trầm cảm hổ lốn; rối loạn trầm cảm đẵn; rối loạn khí sắc.

Rối loạn tâm cảnh hổ lốn: Rối loạn tâm cảnh là rối loạn liên quan đến sự khó chịu liên tục và các tuổi trực tính của hành vi đó là rất khó kiểm soát, với sự khởi đầu ở tuổi 6-10. Nhiều trẻ nít cũng có những rối loạn khác, đặc biệt là chống đối, phản đối, hiếu động thái quá, tăng động giảm chú ý, hoặc rối loạn lo lắng. Các diễn tả bao gồm các cơn kích thích luôn nghiêm trọng (thí dụ như giận dữ hoặc gây tổn thương đối với những người xung quanh...) có tần suất cao hơn 3 lần/tuần; sự bùng nổ không thích hợp với hoàn cảnh; dạng gắt gỏng, tức giận hiện diện hằng ngày.

Rối loạn trầm cảm cốt tử là một trầm cảm kéo dài hơn 2 tuần. Rối loạn trầm cảm cốt tử lần trước hết có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi nhưng phổ thông hơn là sau tuổi dậy thì với một số trình bày: cảm thấy buồn hoặc người khác quan sát thấy nỗi buồn (thí dụ như nước mắt) hoặc khó chịu; mất quan hoài hoặc thú vị trong hồ hết các hoạt động (thường được bộc lộ như là nản); giảm cân (không tăng cân như dự kiến); giảm hoặc tăng cảm giác thèm ăn; mất ngủ hoặc chứng đau nửa đầu; sự kích động hoặc chậm phát triển tâm thần; mỏi mệt hoặc mất năng lượng; giảm khả năng nghĩ suy, tập trung và tuyển lựa; những nghĩ suy liên tiếp về cái chết (không chỉ sợ chết) hoặc ý tưởng hay kế hoạch tự vẫn; cảm giác vô ích (tức thị cảm thấy bị từ chối và không được yêu thương)...

Nguy cơ tái phát cao ở những trẻ có giai đoạn trầm cảm nặng, có nhiều thời đoạn trầm cảm.

Rối loạn khí sắc: Chứng ù tai là dạng trầm cảm hoặc tức giận dằng dai kéo dài trong thời gian dài trong đó có một số biểu thị như: chán ăn hoặc ăn quá nhiều; mất ngủ hoặc chứng đau nửa đầu; giảm năng lượng hoặc mỏi mệt; kém tụ họp; cảm giác vô vọng; dễ bị lạm dụng... So với các rối loạn trầm cảm cốt tử, các triệu chứng có thể ít hơn. thời kì kéo dài nhàng nhàng 5 năm. Một thời đoạn trầm cảm lớn có thể xảy ra trước khi khởi phát hoặc trong năm đầu tiên.

Các biện pháp tâm lý và tái khám định kỳ

Đối với thanh thiếu niên việc điều trị sẽ mang lại hiệu quả cao hơn khi phối hợp liệu pháp tâm lý và thuốc chống trầm cảm. Có thể cần phải nhập viện trong các giai đoạn cấp tính, đặc biệt khi xác định có ý tưởng và hành vi tự vẫn. Tác dụng ngoại ý do độc tính, có thể xảy ra khi dùng thuốc chống trầm cảm trong quá trình điều trị. Do đó, trẻ thơ và thanh thiếu niên uống các loại thuốc này phải được theo dõi chặt đẹp. Các biện pháp đồng thời dựa vào gia đình và nhà trường. Cần phải xem xét cẩn thận về bệnh sử và các xét nghiệm hạp để loại trừ các rối loạn khác (tỉ dụ như bệnh truyền nhiễm, bệnh tuyến giáp, lạm dụng ma túy) có thể gây ra các triệu chứng na ná. trẻ mỏ và thanh thiếu niên nên được điều trị trong ít nhất 1 năm sau khi các triệu chứng đã giảm dần và hết hẳn. hầu hết các chuyên gia khuyến cáo rằng trẻ mỏ có trên 2 tuổi trầm cảm cần điều trị lâu dài. Cũng như ở người lớn, tái phát trầm cảm là phổ quát. bởi vậy việc trị liệu tâm lý và tái khám định kỳ theo kế hoạch điều trị của thầy thuốc rất quan yếu.

PGS.TS. Cao Tiến Đức

0 nhận xét:

Đăng nhận xét