Thứ Hai, 4 tháng 11, 2019

Tập cho bé ăn dặm đúng cách

Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), trẻ sẽ được tập cho ăn dặm khi tròn 6 tháng tuổi, vì lúc này hệ tiêu hóa của trẻ đã phát triển khá hoàn chỉnh nên có thể tiếp nhận những thức ăn đặc và phức tạp hơn so với sữa mẹ, trẻ thật sự cần những thức ăn bổ sung để cơ thể phát triển khỏe mạnh vì nguồn sữa mẹ sau 6 tháng đã không đủ đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng hàng ngày của trẻ nữa. Tuy nhiên, cho trẻ ăn những gì, ăn như thế nào khiến cho các bà mẹ băn khoăn nhất là những người sinh con lần đầu. Dưới đây là vấn đề lưu ý khi cho bé tập ăn dặm.

Bắt đầu bằng thực phẩm gì?

Khẩu phần của trẻ ăn dặm phải có đầy đủ 4 nhóm thực phẩm cấp thiết: tinh bột (gạo tẻ, ngô...), chất đạm (các loại thịt, cá, trứng, sữa...), chất béo (dầu thực vật, mỡ động vật), chất xơ, vitamin và khoáng chất (các loại rau xanh, các loại củ). Tuy nhiên, khi mới bắt đầu, mẹ nên tập cho con ăn từng loại thực phẩm biệt lập.

Nếu nuôi con theo cách truyền thống bằng bột gạo hoặc cháo xay, mẹ có thể bắt đầu bằng vật liệu bột, sau đó mới thêm đạm, rồi đến dầu và chung cục mới thêm rau. Với bột ăn dặm chế biến sẵn, chỉ nên bắt đầu bằng bột chứa một loại ngũ cốc, không nên dùng bột ngũ cốc hẩu lốn. Mẹ cũng có thể bắt đầu bằng quả chín hoặc rau củ mềm đun cách thủy rồi nghiền nát (quả chuối, quả bơ, bí ngô, cà rốt, khoai lang...), sau đó mới tập cho bé ăn thịt rồi rau xanh.

Việc chọn lựa phương pháp nào là tùy thuộc hoàn toàn vào điều kiện của mỗi gia đình cũng như ước muốn của mẹ và bé. Không có quy định ngặt nghèo phải bắt đầu từ thực phẩm nào. Nguyên tắc chung là nên bắt đầu bằng thức ăn ít khả năng gây dị ứng và gần giống với loại sữa bé đang dùng nhất. Chẳng hạn, nếu bé đã quen với vị ngọt hơn của sữa mẹ, hãy thử bắt đầu bằng cách nạo chuối chín trộn với một tẹo sữa mẹ cho bé ăn. Nếu bé quen với vị nhạt hơn của sữa công thức, bạn có thể bắt đầu bằng loại quả nhạt như quả bơ. Khẩu vị của các bé rất khác nhau, vì vậy mẹ cần thí điểm để tìm ra phương án hạp nhất cho bé yêu của mình.

Tô màu bát bột giúp trẻ ăn ngon miệng và đầy đủ dinh dưỡng.

Tô màu bát bột giúp trẻ ăn ngon miệng và đầy đủ dinh dưỡng.

Bắt đầu thế nào?

Trước khi tập ăn dặm, mẹ có thể cho con chơi với thìa nhựa để thử phản ứng của bé. Nếu bé tự đưa thìa vào miệng thì việc luyện tập có thể bắt đầu. Chọn thời khắc cả bé và mẹ đều vui vẻ để bắt đầu tập ăn dặm.

Cho bé ngồi ngay ngắn để tránh bị sặc. Dùng thìa để xúc thức ăn cho bé. Nên chọn thìa nhựa nông, có viền tròn và nhẵn. Loại thìa này không bị nóng quá hoặc lạnh quá như thìa kim loại và không gây tiếng ồn lớn khi rơi hay va đập. Không nên trộn thức ăn đặc vào bình sữa vì cách này có thể khiến bé bị sặc hoặc ăn nhiều hơn cấp thiết, dẫn tới tăng cân quá mức. Cần cho bé làm quen với một bữa ăn chuẩn: ngồi thẳng, ăn từ thìa, nghỉ giữa các lần đút và ngừng khi no. Những kinh nghiệm này sẽ giúp bé hình thành lề thói ăn uống lành mạnh suốt cuộc thế.

Bắt đầu bằng 1/2 thìa cà phê thức ăn hoặc ít hơn. Trong khi đút, hãy nói chuyện với bé (Măm măm, bé xem bột ngon không này!). Một hai lần đầu, bé có thể không biết phải làm gì, bé bối rối, nhăn mũi, đẩy thức ăn quanh miệng hay nhè hết ra. Đây là phản ứng thông thường. Để việc tập ăn dặm lần đầu của bé bớt khó khăn, bạn có thể cho con bú một tẹo sữa mẹ hoặc sữa công thức trước khi dùng thức ăn đặc. Sau khi bé ăn hết thìa bột, bạn lại cho con bú để bé không nổi nóng khi quá đói.

Một vấn đề khiến nhiều bà mẹ trẻ băn khoăn đó là nên tập cho bé ăn dặm vào thời điểm nào trong ngày, buổi sáng hay buổi chiều? Về nguyên tắc, để việc ăn dặm trở thành dễ dàng hơn, mẹ nên chọn thời khắc bé cảm thấy muốn ăn nhất. Trẻ bú mẹ thường náo nức hơn vào cuối ngày, khi nguồn sữa mẹ kém dồi dào. Trẻ được nuôi bằng sữa công thức lại thường đói nhất vào buổi sáng.

Khi tập cho con ăn món mới, mẹ nên bắt đầu vào buổi sáng vì nếu bé có phản ứng với thức ăn thì tới chiều tối các hiện tượng rối loạn tiêu hóa cũng chấm dứt. Bắt đầu một món mới vào buổi tối có thể đi kèm nguy cơ phải thức trắng đêm vì con.

Mẹ cũng nên tránh tập cho con ăn dặm vào lúc đang bận rộn. Hãy chọn thời khắc bạn thực sự thư giãn và vui vẻ, điều này rất quan yếu. Khi được 4 tháng, trẻ đã có khả năng đoán biết xúc cảm của cha mẹ. Nếu bạn quá lo lắng về việc làm sao để bé ăn hết phần bột thì bé cũng sẽ cảm thấy lo âu không kém. Cũng như trong mọi lĩnh vực phát triển, trẻ có thể tiến 2 bước rồi lùi một bước. Ngày bữa nay bé ăn vài thìa cà phê bột, sang ngày sau bé lại chỉ chịu ăn 1 thìa. bữa nay bé vồ vập với món bột thịt, tương lai lại nhất quyết không chịu ăn chính món này. Đó là chuyện thông thường

Quan sát phản ứng của trẻ

Sau lần thử thứ nhất, nếu bé nô nức há miệng và vui vẻ tiếp thu đồ ăn thì bạn có thể yên tâm là bé đã sẵn sàng. ngược lại, nếu bé nhăn nhó, bặm miệng, ngoảnh mặt đi hoặc phì thức ăn ra thì bé chưa sẵn sàng và mẹ không nên ép con. Việc cả mẹ và con đều cảm thấy vui vẻ quan trọng hơn việc tuân lộ trình nhất định. Cần lưu ý rằng dấu hiệu nhăn mặt kém tin cậy hơn dấu miệng há miệng/ngậm miệng vì một số trẻ làm bộ làm tịch mặt nhăn nhó chỉ vì thức ăn quá mới mẻ với mình chứ không phải vì không thích. Nếu lần đầu chưa thành công, mẹ hãy bền chí thử lại. Nói chung, thường phải sau 6-10 lần trẻ mới ưng thức ăn mới và khả năng này tăng lên đáng kể sau 12-15 lần thử. Trên thực tại, đại phần nhiều bác mẹ chưa đủ kiên nhẫn để thử tới lần thứ 6, số người thử đến lần thứ 10 có thể đếm trên đầu ngón tay.

Đôi khi, bé há miệng to để đón nhận thìa bột mới nhưng không biết ngậm miệng lại và bột cứ thế trào ra ngoài. Hãy cho bé thêm thời gian để học cách ngậm miệng khi di chuyển thức ăn từ phía trước ra phía sau. Bột bị đẩy ra cũng có thể là dấu hiệu cho thấy phản xạ đẩy lưỡi của bé vẫn chưa hết, khiến bé không thể đưa thức ăn ra sau miệng và nuốt xuống. Nếu sau vài lần thử mà bé vẫn há miệng và chẳng thể nuốt thức ăn thì nên chờ thêm 1 hay 2 tuần rồi mới thử lại.

Trường hợp bé nhất mực không chịu ăn bằng thìa, mẹ có thể thử dùng ngón tay của mình để xúc thức ăn cho bé. Ngón tay mẹ mềm mại và ấm áp có thể được bé tiếp thu dễ dàng hơn. Chú ý rửa sạch tay trước khi cho bé ăn. Dùng ngón tay xúc một tí bột, yêu cầu bé há to miệng và đặt đầu ngón tay của bạn lên môi của bé. Cho bé mút đầu ngón tay này. đấu dùng đầu ngón tay xúc một chút thức ăn, lần này bạn cần đặt đầu ngón tay của mình vào đầu lưỡi của trẻ (nơi có các nhú cảm nhận vị ngọt). Nếu bé nuốt hay chí ít là không phì thức ăn ra thì bạn hãy Tiếp tục đưa thức ăn vào giữa lưỡi của bé. Một số trẻ có thể ưng đồ ăn dặm theo cách đặc biệt này.

Xét về cấu trúc phẫu thuật, các nhú vị giác cảm nhận vị ngọt nằm ở ngay đầu lưỡi, nhú cảm nhận vị mặn nằm ở hai bên lưỡi, nhú cảm nhận vị đắng nằm ở phía cuống lưỡi, còn ở phần giữa lưỡi các nhú vị giác thường trung tính hơn. bởi thế, khi cho bé tập ăn thực phẩm mới, nên đưa món ngọt vào đầu lưỡi của trẻ. Với các món ít ngọt hơn (rau Chẳng hạn) nên đưa vào phần giữa lưỡi để làm tăng nhịp bé nuốt vào chứ không nhè đồ ăn ra.

BS. Trần Thu Thủy

Rút một lá bài Tarot để biết những cơ hội nào sẽ đến với bạn trong tuần mới này

Trong cuộc sống, thử thách và cơ hội sẽ luôn đi cùng với nhau. Bạn phải thật tinh ý, nhạy bén mới có thể nắm bắt được những cơ hội tốt dành cho mình. ưng chuẩn một lá bài Tarot, bạn sẽ biết được cơ hội nào đang tiềm ẩn trong cuộc sống của bạn vào tuần mới này.

Viêm phổi là bệnh lây nhiễm nguy hiểm và gây tử vong nhiều hơn bất cứ bệnh nào: Nguyên nhân và triệu chứng bệnh viêm phổi ở trẻ nhỏ

Theo san sớt của BS. Trương Hữu Khanh, trưởng khoa nhiễm Bệnh viện Nhi Đồng 1, TP.HCM, một nghiên cứu của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cho biết viêm phổi là bệnh truyền nhiễm hiểm nguy và gây tử vong nhiều hơn bất cứ bệnh nào khác. Bệnh có khả năng gây tử vong cao ở trẻ dưới 5 tuổi, mỗi năm trên thế giới có hơn 1 triệu con trẻ dưới 5 tuổi chết vì viêm phổi.

Viêm phổi là bệnh lây nhiễm nguy hiểm và gây tử vong nhiều hơn bất cứ bệnh nào: Nguyên nhân và triệu chứng bệnh viêm phổi ở trẻ nhỏ - Ảnh 1.

Bệnh viêm phổi là gì?

Viêm phổi là tình trạng nhiễm trùng bên trong phổi, xuất hiện khi vi khuẩn hay virus mắc kẹt trong cơ quan này. Vi khuẩn hay virus sẽ sinh sôi tại đây và gây ra những ổ nhiễm trùng, thường gặp nhất là phế cầu khuẩn.

Bệnh có thể xuất hiện khi trẻ đang bị một đợt ho hoặc cảm cúm. Lúc này dịch nhầy tiết ra trong phổi trở nên nguồn dinh dưỡng dồi dào cho vi trùng. Sau khoảng vài ngày, vi khuẩn và virus có thể chóng vánh sinh sôi nảy nở, tạo nên những túi phế nang chứa mủ và chất nhầy bị nhiễm khuẩn.

căn nguyên gây bệnh viêm phổi ở trẻ nhỏ

Có rất nhiều nguyên do gây bệnh viêm phổi, trong đó thường gặp là: Viêm phổi thể do vi khuẩn, virus, nấm, hóa chất...

Viêm phổi là bệnh lây nhiễm nguy hiểm và gây tử vong nhiều hơn bất cứ bệnh nào: Nguyên nhân và triệu chứng bệnh viêm phổi ở trẻ nhỏ - Ảnh 2.

- Trẻ trên 5 tuổi: Trẻ ở độ tuổi này thường gặp viêm phổi do các loại vi khuẩn không tiêu biểu như: Mycoplasma Pneumonia, Chlamydia Pneumoniae, phế cầu, các loại siêu vi hô hấp.

- Trẻ dưới 5 tuổi: Ở độ tuổi này, trẻ thường gặp viêm phổi do vi khuẩn như: phế cầu, tụ cầu vàng, liên cầu pyogenes, HiB. HiB trước đây là một tác nhân quan trọng gây ra viêm phổi ở trẻ, nhưng sau này do có chương trình tiêm ngừa nên tác nhân này hiện không đáng kể.

- Trẻ dưới 2 tháng tuổi: Ở độ tuổi này, ngoài các vi khuẩn như của trẻ dưới 5 tuổi còn có thể gặp một số vi khuẩn đường ruột như: E.Coli, Proteus... do mẹ truyền qua.

BS. Khanh cho biết, phế cầu khuẩn (Streptococcus pneumoniae) là nguyên cớ hàng đầu gây viêm phổi ở trẻ nhỏ. Phế cầu là vi khuẩn thường trú trong hầu họng người lớn và trẻ em. Vi khuẩn này lan truyền nhiều nhất qua đường không khí (ho, hắt xì) và lây lan ưng chuẩn việc xúc tiếp với người bị bệnh hoặc người khỏe mạnh mang vi khuẩn phế cầu trong người. Viêm phổi do phế cầu khuẩn cực kỳ hiểm nguy, với tỷ lệ tử vong 10-20% và 50% ở nhóm đối tượng nguy cơ cao như trẻ nhỏ/người già.

Triệu chứng viêm phổi ở trẻ nhỏ

Viêm phổi là bệnh lây nhiễm nguy hiểm và gây tử vong nhiều hơn bất cứ bệnh nào: Nguyên nhân và triệu chứng bệnh viêm phổi ở trẻ nhỏ - Ảnh 3.

Khi thấy trẻ có các triệu chứng viêm phổi dưới đây các phụ huynh nên đưa con đến khám tại các cơ sở y tế để có hướng điều trị kịp thời.

- Ho vừa đến nặng, có thể ho nặng tiếng

- Thở nhanh liên tiếp (khác với thở nhanh tạm thời khi sốt cao)

- Thở gắng công: Cánh mũi phập phồng, thở rên, co kéo cơ liên sườn, co rút hõm ức, rút lõm lồng ngực

- Sốt vừa đến sốt cao nhưng đôi khi không có ở trẻ có hệ miễn dịch yếu

- Đau ngực trong lúc ho và cả giữa các cơn ho

- Nôn không chỉ sau những cơn ho mạnh mà cả giữa các cơn ho

- Tím tái quanh môi và ở mặt do thiếu oxy

- Thở rít: đôi khi đây cũng là diễn đạt của viêm phổi.

Tìm hiểu và phòng tránh bệnh khô mắt cho dân văn phòng

Nếu không chú ý và có những đổi thay hợp lý, hội chứng có thể dẫn đến các bệnh lý nghiêm trọng khác về sau.

Khô mắt là hiện tượng phổ thông trong cuộc sống đương đại (ảnh minh hoạ)

Bệnh khô mắt là gì?

Khô mắt là sự rối loạn của màng phim nước mắt. Màng phim này bao gồm 3 lớp: Lớp mỡ, lớp nước và lớp nhầy. Lớp mỡ hạn chế sự bốc hơi nước mắt. Lớp nước trong suốt đảm bảo cung cấp oxy cho biểu mô giác mạc, có tính khử trùng nhẹ cho giác mạc trơn nhẵn, rửa trôi bụi bẩn. Lớp nhầy giúp dàn đều nước mắt trên giác mạc.

Các lớp này cùng nhau bảo vệ nhãn cầu khỏi những tác động xấu bên ngoài. Khi 3 lớp này bị mất cân bằng sẽ khiến nước mắt bay hơi nhanh, dẫn đến không cấp đủ nước mắt để bôi trơn, bảo vệ bề mặt nhãn cầu và nuôi dưỡng giác mạc, gây nên những triệu chứng khó chịu cho mắt.

Cấu tạo màng phim nước mắt (ảnh minh hoạ)

Trước đây, tuổi tác là lý do phổ thông gây khô mắt. hiện, người mắc đang trẻ hóa dần, đặc biệt rơi vào đối tượng dân văn phòng. Điện thoại, máy tính và các thiết bị điện tử khác trở nên vật bất ly thân, môi trường làm việc trực tính xúc tiếp với điều hòa, mắt liên tục chịu sức ép, lại không được ngơi nghỉ đủ trở nên căn nguyên lớn nhất dẫn đến khô mắt.

Dân văn phòng dễ mắc phải chứng khô mắt (ảnh minh hoạ)

Các triệu chứng của bệnh khô mắt

Sau một thời kì mắt chịu sức ép liên tục, người bị khô mắt sẽ dần gặp các tình trạng sau: Nặng mắt, cay và xốn, gai mắt, đỏ mắt; chảy nước mắt sống, nhạy cảm với ánh sáng; mắt dễ mỏi, thường xuất hiện gỉ mắt, khó tỉnh ngộ sau mỗi lần ngủ dậy; mắt mờ, tầm nhìn hạn chế.

Đỏ mắt là một trong những biểu lộ của khô mắt (ảnh minh hoạ)

Mới đầu, người gặp phải có thể xem nhẹ, nhưng để lâu sẽ dần thấy nhãn quan giảm sút, mắt không còn sáng khỏe, ảnh hưởng đến công việc và sinh hoạt hàng ngày.

Dùng thuốc nhỏ mắt đúng cách

bây chừ có rất nhiều loại thuốc nhỏ mắt trên thị trường cho bạn tuyển lựa. Có thể kể đến thuốc nhỏ mắt chứa thành phần Hydroxyethylcellulose (HEC) - hợp chất cao phân tử giúp tăng cường độ nhờn ở bề mặt giác mạc.

Thuốc nhỏ mắt V.Rohto DryEye chuyên dùng cho mắt khô

Đặc tính của thuốc nhỏ mắt V.Rohto DryEye là bổ sung nước mắt nhân tạo, giữ ẩm cho mắt, giúp cấp đủ độ nhờn, làm dịu bề mặt nhãn cầu hiệu quả, giúp cải thiện tình trạng mắt khô.

Cách sử dụng thuốc rất đơn giản khi chỉ cần nhỏ mắt mỗi lần 1-2 giọt, mỗi ngày 3-4 lần. Thuốc nhỏ mắt V.Rohto DryEye ăn nhập sử dụng hàng ngày. Đặc biệt, có thể dùng thuốc khi đang mang kính sát tròng.

Không dùng thuốc cho người đang bị tăng nhãn áp và nhạy cảm với các thành phần của thuốc.

Đừng bỏ qua những dấu hiệu khi đôi mắt của bạn “lên tiếng”, chủ động dự phòng và điều trị để bảo vệ đôi mắt sáng khỏe.